Khi sinh ra, cơ quan thị giác của trẻ chưa hoàn thiện nên sức nhìn rất kém. Thị lực sẽ phát triển dần và đạt 10/10 vào khoảng 5 tuổi.
Từ khi sinh đến 6 tuần tuổi: Trẻ biết nhìn ra xung quanh khi tỉnh dậy, đôi khi biết nhìn thẳng vào ánh sáng hoặc vật sáng, chớp mắt với ánh đèn flash, đầu và mắt cùng di chuyển.
Từ 8 đến 24 tuần tuổi: Mắt liếc rộng hơn, đầu ít phải di chuyển theo hơn, mắt bắt đầu dõi theo người hay vật chuyển động (8-12 tuần), biết nhìn vào mặt bố mẹ khi nghe nói chuyện (10-12 tuần), bắt đầu tự nhìn vào tay mình (12-16 tuần), liếc mắt và khám phá xung quanh (18-20 tuần). Khi ngồi, bé biết nhìn vào chân, tay hay bình sữa (18-24 tuần); biết quan sát và tìm kiếm vật ở xa hơn (20-28 tuần).
Từ 30 đến 48 tuần tuổi: Bé liếc nhiều hơn, ít phải quay đầu hơn (30-36 tuần), quan sát các hành động xung quanh với thời gian dài hơn (30-36 tuần), biết nhìn để tìm đồ chơi khi bị đánh rơi (32-38 tuần), biết nhìn dõi theo những đồ chơi ưa thích khi nhìn thấy (38-44 tuần), biết nhìn về phía có tiếng nói hay tiếng cười của người khác (40-48 tuần), biết quan sát xung quanh phòng ở để xem điều gì xảy ra (44-48 tuần).
Từ 12 đến 18 tháng tuổi: Biết sử dụng hai tay và nhìn chằm chằm vào vật cầm ở tay (12-14 tháng), biết nhìn vào các bức tranh đơn giản (14-16 tháng), thường cầm vật lại gần mắt để quan sát, khám phá (14-18 tháng), biết tìm kiếm và xác định các bức tranh trong sách (16-18 tháng).
Từ 24 đến 36 tháng tuổi: Biết quan sát mà không cần sờ vào đồ vật (20-24 tháng), biết mỉm cười và vui mừng khi nhìn thấy người hay đồ vật yêu thích (20-24 tháng), thích nhìn chuyển động của bánh xe hay vật di chuyển (24-28 tháng), biết quan sát và bắt chước những đứa trẻ khác (30-36 tháng), có thể bắt đầu biết tô màu trên giấy (34-38 tháng), biết “đọc” tranh trong sách (34-38 tháng).
Từ 40 đến 48 tháng tuổi: Biết đưa đầu và mắt lại gần trang sách khi nhìn (40-44 tháng), biết vẽ vòng tròn hay chữ thập trên giấy (40-44 tháng), có thể biết nhắm mắt theo yêu cầu và biết nháy một bên mắt (46-50 tháng).
Từ 4 đến 5 tuổi: Biết sử dụng tốt kỹ năng phối hợp giữa tay và mắt, liếc mắt thành thạo, biết vẽ tranh, biết tô màu trong một vòng tròn hay hình chữ nhật, biết cắt và dán những bức tranh đơn giản, chép lại một số hình hoặc chữ, có thể đưa một vật nhỏ qua một lỗ nhỏ, biết kể về vị trí, đồ vật hay con vật đã nhìn thấy. Lúc này, có thể bắt đầu đánh giá khả năng nhìn của mắt bằng các test thử thị lực như bảng hình vẽ sau đó là con số, bảng vòng hở Landolt…
Khi đo thị lực ở trẻ, người ta thấy rằng bình thường thị lực đạt 1/10 lúc trẻ 2-4 tháng tuổi, 2/10 lúc 6-7 tháng, 3/10-4/10 lúc 1 năm tuổi và 10/10 lúc 4-5 tuổi.
Để phát hiện và can thiệp sớm những bất thường về mắt ở trẻ, Hội nhãn khoa Mỹ đã đưa ra lịch khám sàng lọc như sau:
Trẻ mới sinh đến 3 tháng tuổi: Khám ánh đồng tử (để phát hiện sẹo giác mạc, đục thể thủy tinh, bong võng mạc hay các bệnh lý khác), test ánh phản chiếu giác mạc (để phát hiện lác), khám bên ngoài để phát hiện các khiếm khuyết về cấu trúc.
Trẻ 6-12 tháng tuổi: Khám ánh đồng tử, test ánh phản chiếu giác mạc, test bịt mắt luân phiên hoặc khả năng định thị hay nhìn dõi theo của trẻ (để phát hiện nhược thị).
Trẻ 3 tuổi: Khám ánh đồng tử, test ánh phản chiếu giác mạc, thử thị lực và thị giác nổi (để phát hiện tật khúc xạ, nhược thị).
Trẻ 5 tuổi: Tương tự như khi khám trẻ 3 tuổi.
BS Đỗ Quang Ngọc, Sức Khỏe & Đời Sống
Theo http://suckhoe.vnexpress.net/print/suc-khoe/thi-luc-tre-em-phat-trien-nhu-the-nao-2259602.html